Mô hình chính quyền đô thị và cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng

TS. ĐOÀN TRƯỜNG THỤ - HOÀNG THỊ THẢO
Tạp chí Cộng sản - Đại học Sư phạm, Đại học Huế
22:47, ngày 18-09-2021

TCCS - Việc xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương, nhất là ở các đô thị lớn, cấp quốc gia như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng có ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt. Đối với Đà Nẵng, trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ của khu vực miền Trung - Tây Nguyên, trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước có nhiều nghị quyết, kết luận về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng, đồng ý thí điểm mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển. Tuy nhiên, để mô hình chính quyền đô thị của Đà Nẵng được tổ chức thực hiện hiệu quả, tạo nên những đột phá phát triển, thì việc tiếp tục đổi mới các cơ chế, chính sách đặc thù góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc nảy sinh trong quá trình thực hiện thí điểm thời gian qua đang cấp thiết đặt ra.

Mô hình chính quyền đô thị ở Đà Nẵng

Đà Nẵng trở thành thành phố trực thuộc Trung ương ngày 1-1-1997 theo Nghị quyết Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX. Chỉ trong một thời gian ngắn, Đà Nẵng trở thành đô thị loại I cấp quốc gia theo Quyết định số 145/2003/QĐ-TTg, ngày 15-7-2003, của Thủ tướng Chính phủ. Từ đó đến nay, Đà Nẵng là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Để xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách để phát triển thành phố Đà Nẵng, như: Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 16-10-2003, của Bộ Chính trị khóa IX, “Về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Kết luận số 75-KL/TW, ngày 12-11-2013, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW”, của Bộ Chính trị khóa IX “Về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước””; Nghị định số 144/NĐ-CP, ngày 1-11-2016, của Chính phủ, “Quy định một số cơ chế đặc thù về đầu tư, tài chính, ngân sách và phân cấp quản lý đối với thành phố Đà Nẵng”.

Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Nguyễn Văn Quảng cùng lãnh đạo các sở, ban, ngành thành phố kiểm tra công trình cải tạo nút giao thông phía tây cầu Trần Thị Lý, thành phố Đà Nẵng _ Ảnh: 319mt.vn

Trong quá trình triển khai thực hiện các nghị quyết, kết luận của Trung ương và các cơ chế, chính sách đặc thù của Chính phủ, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, Đà Nẵng cũng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do yếu tố khách quan lẫn chủ quan. Về khách quan, việc chia tách địa giới hành chính làm cho diện tích tự nhiên nhỏ hơn, dân số ít, quy mô kinh tế nhỏ, có xuất phát điểm thấp, thiên tai xảy ra thường xuyên; sự phát triển của thành phố với tốc độ đô thị hóa nhanh cũng phát sinh nhiều vấn đề phức tạp, như: hạ tầng đô thị xuống cấp, quản lý quy hoạch đô thị, đất đai nhiều bất cập, ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng, nguồn nhân lực thiếu bền vững, thu hút đầu tư nước ngoài còn hạn chế, tình trạng tham nhũng gây thất thoát tài sản của Nhà nước… đã làm giảm lòng tin của nhân dân. Những khó khăn, thách thức trên ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.

Trong bối cảnh đó, để khai thác, phát huy được những tiềm năng, thế mạnh, khắc phục những hạn chế, yếu kém, để xứng đáng là trung tâm, đầu tàu dẫn dắt kinh tế - xã hội của miền Trung - Tây Nguyên phát triển bền vững, ngày 24-1-2019, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW, “Về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Với Nghị quyết này, Bộ Chính trị đồng ý chủ trương “cần có cơ chế, chính sách đặc thù để xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng, tạo động lực cho phát triển khu vực miền Trung - Tây Nguyên và cả nước”. Chủ trương của Bộ Chính trị được thể chế hóa bằng Nghị quyết số 119/2020/QH14, ngày 19-6-2020, của Quốc hội, “Về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng.

Nghị quyết số 119/2020/QH14 quy định thành phố Đà Nẵng là cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân thành phố và Ủy ban nhân dân thành phố. Còn chính quyền địa phương ở các quận, phường là ủy ban nhân dân quận và phường. Khu vực nông thôn, huyện Hòa Vang và các xã trực thuộc vẫn tiếp tục giữ mô hình chính quyền địa phương theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Nhằm tăng cường cơ chế kiểm soát quyền lực đối với chính quyền địa phương và cơ quan tư pháp ở cấp quận, Nghị quyết số 119/2020/QH14 bổ sung thẩm quyền của Hội đồng nhân dân thành phố và đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố. Cụ thể, Hội đồng nhân dân thành phố có quyền giám sát hoạt động của ủy ban nhân dân quận, phường, tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân quận; lấy phiếu tín nhiệm đối với chủ tịch ủy ban nhân dân quận; đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố có quyền chất vấn chủ tịch ủy ban nhân dân quận, chánh án tòa án nhân dân quận xem xét việc trả lời chất vấn của những người được chất vấn.

Về cơ cấu tổ chức, Nghị quyết số 119/2020/QH14 của Quốc hội quy định, mỗi ban của Hội đồng nhân dân thành phố có không quá 2 phó trưởng ban hoạt động chuyên trách; trưởng ban của Hội đồng nhân dân thành phố có thể là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách để tạo sự linh hoạt, chủ động cho thành phố trong trường hợp cần bố trí tăng thêm số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách tại mỗi ban. Để phù hợp với mô hình tổ chức một cấp chính quyền thành phố và hai cấp hành chính quận, phường, Nghị quyết số 119/2020/QH14 của Quốc hội bổ sung 4 nhóm nhiệm vụ, quyền hạn đối với Ủy ban nhân dân thành phố bên cạnh các quy định hiện hành của Luật Tổ chức chính quyền địa phương; đồng thời tăng nhiệm vụ, quyền hạn cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố so với quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương là: i) “Bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, biệt phái, khen thưởng, kỷ luật, tạm đình chỉ công tác chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân quận và Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện đảo (huyện đảo Hoàng Sa)”; ii) “Đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật của ủy ban nhân dân quận, phường”(1).

Cơ cấu tổ chức ủy ban nhân dân quận gồm chủ tịch, phó chủ tịch và các công chức cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân quận (không còn quy định ủy viên ủy ban nhân dân làm việc theo chế độ tập thể như quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương). Theo đó, chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân quận, người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân quận là công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý của ủy ban nhân dân quận. Ủy ban nhân dân quận làm việc theo chế độ thủ trưởng, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ. Chủ tịch ủy ban nhân dân quận là người đứng đầu, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố, trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của ủy ban nhân dân quận. Chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân phường là công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý. Ủy ban nhân dân phường làm việc theo chế độ thủ trưởng, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ. Chủ tịch ủy ban nhân dân phường là người đứng đầu, chịu trách nhiệm trước chủ tịch ủy ban nhân dân quận và trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của ủy ban nhân dân phường.

Việc áp dụng thí điểm mô hình chính quyền đô thị một cấp (cấp thành phố) và chỉ tổ chức cơ quan hành chính ở quận, phường đáp ứng được yêu cầu tinh gọn bộ máy, tăng khả năng phản ứng nhanh nhạy của chính quyền đối với các vấn đề thực tiễn đang đặt ra sẽ tạo điều kiện phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo; đề cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền thành phố. Các cơ quan chuyên môn trực thuộc được sắp xếp tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phân định rõ thẩm quyền, đặc biệt là của người đứng đầu đơn vị, qua đó, tăng trách nhiệm giải trình của chính quyền; hình thành phương thức quản lý và cung ứng dịch vụ chuyên nghiệp; kiểm soát, giám sát chặt chẽ hơn quá trình thi hành công vụ thông qua các công cụ quản lý; tăng cường chức năng, nhiệm vụ của ủy ban nhân dân quận, phường trên địa bàn thành phố.

Bên cạnh đó, việc áp dụng mô hình chính quyền đô thị đặt ra yêu cầu nâng cao chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, công chức, viên chức; đổi mới mạnh mẽ tư duy, tác phong, phương pháp làm việc để phục vụ người dân và doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi công vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh, huy động, sử dụng và phát huy tất cả các nguồn lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Việc áp dụng mô hình chính quyền đô thị đặt ra yêu cầu nâng cao chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, công chức, viên chức góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi công vụ (Trong ảnh: Giải quyết thủ tục hành chính tại Đà Nẵng) _ Nguồn: thanhnien.vn

Khả năng tự chủ của Đà Nẵng từ các cơ chế và chính sách đặc thù

Với vị trí là trung tâm kinh tế - xã hội của miền Trung - Tây Nguyên, Đà Nẵng cùng với Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh được Trung ương ưu tiên áp dụng nhiều cơ chế, chính sách đặc thù với mục tiêu được xác định trong Nghị định số 144/2016/NĐ-CP là “nhằm thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững kinh tế - xã hội của thành phố; tạo điều kiện để thành phố phát huy được những lợi thế trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế - xã hội lớn với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại và dịch vụ của miền Trung vào năm 2020; tạo động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của các tỉnh khu vực miền Trung và Tây Nguyên”(2).

Theo Nghị định số 144/2016/NĐ-CP, chính quyền thành phố Đà Nẵng được hưởng các cơ chế đặc thù trên các lĩnh vực đầu tư, tài chính, ngân sách và phân cấp quản lý. Cụ thể, về cơ chế tài chính, ngân sách, ngân sách trung ương sẽ bổ sung có mục tiêu cho Đà Nẵng 70% số tăng thu so với dự toán được Thủ tướng Chính phủ giao từ các khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương và từ các khoản thu ngân sách trung ương được hưởng 100%. Chính quyền thành phố Đà Nẵng được thực hiện cơ chế hỗ trợ một phần lãi suất cho tổ chức, cá nhân vay vốn đầu tư các dự án phát triển kinh tế - xã hội quan trọng có khả năng thu hồi vốn trong phạm vi và khả năng của ngân sách thành phố; được bán nhà ở xã hội đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước theo hình thức thu tiền một lần.

Về cơ chế huy động vốn cho đầu tư phát triển, theo quy định tại khoản 6, Điều 7, Luật Ngân sách nhà nước năm 2015, thành phố Đà Nẵng thuộc nhóm các địa phương có số thu ngân sách địa phương được hưởng theo phân cấp lớn hơn chi thường xuyên của ngân sách địa phương nên mức dư nợ vay của thành phố không vượt quá 30% số thu ngân sách được hưởng theo phân cấp. Còn theo quy định tại khoản 1, Điều 3, Nghị định số 144/2016/NĐ-CP thì Đà Nẵng “được vay vốn đầu tư trong nước thông qua các hình thức phát hành trái phiếu chính quyền địa phương và các hình thức huy động khác theo quy định của pháp luật; vay lại từ nguồn Chính phủ vay về cho ngân sách địa phương vay lại. Mức dư nợ vay (bao gồm vay trong nước từ phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, vay lại từ nguồn Chính phủ vay về cho vay lại và các khoản vay trong nước khác theo quy định của pháp luật) của ngân sách thành phố không vượt quá 40% số thu ngân sách địa phương được hưởng theo phân cấp và nằm trong mức bội chi ngân sách nhà nước hằng năm được Quốc hội quyết định”(3)Chính phủ cũng ưu tiên huy động vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho Đà Nẵng để thực hiện các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng quan trọng thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách thành phố; ưu tiên bố trí vốn vay ưu đãi theo phương thức cho địa phương vay lại để thực hiện các dự án đối tác công tư (PPP) trên địa bàn thành phố. Ủy ban nhân dân thành phố được phê duyệt danh mục dự án, tiếp nhận các khoản viện trợ không hoàn lại (ODA, phi chính phủ nước ngoài) đối với các dự án, chương trình dự án không phụ thuộc vào quy mô viện trợ, trừ các khoản viện trợ hỗ trợ kỹ thuật đặc thù.

Về cơ chế phân cấp quản lý, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng được phê duyệt điều chỉnh đến 10% diện tích khu công nghiệp, khu công nghệ cao, nhưng không quá 30ha so với diện tích quy hoạch đã được phê duyệt lần đầu.

Báo cáo tổng kết việc thực hiện Nghị định số 144/2016/NĐ-CP của Bộ Tài chính chỉ rõ: “Thực tiễn 3 năm triển khai thực hiện Nghị định số 144/2016/NĐ-CP đã cho thấy có một số kết quả bước đầu, tuy nhiên kết quả còn chưa mang tính đột quá, chưa tạo được nền tảng để hỗ trợ thành phố tăng tốc phát triển, nhất là việc bố trí nguồn ngân sách trung ương đầu tư các công trình, dự án trên địa bàn thành phố; về tỷ lệ điều tiết ngân sách; về điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội”(4). Do đó, “cần tiếp tục ban hành cơ chế, chính sách đặc thù về đầu tư, tài chính, ngân sách và phân cấp quản lý đối với thành phố Đà Nẵng mới đủ mạnh, theo hướng tăng tính chủ động về ngân sách cho thành phố Đà Nẵng, tăng cường phân cấp mạnh mẽ hơn nữa, phù hợp với thực tế phát triển của thành phố”(5).

Về cơ chế phân cấp quản lý, Đà Nẵng được phê duyệt điều chỉnh đến 10% diện tích khu công nghiệp, khu công nghệ cao (Trong ảnh: Công nhân vận hành máy sản xuất tại Công ty ICT Vina, Khu Công nghệ cao thành phố Đà Nẵng_Ảnh: TTXVN 

Xuất phát từ yêu cầu trên, Nghị quyết số 119/2020/QH14 tiếp tục ưu tiên cơ chế, chính sách đặc thù cho Đà Nẵng trên các lĩnh vực quy hoạch đô thị, quản lý tài chính - ngân sách. Cụ thể, về quy hoạch và quản lý quy hoạch, trên cơ sở chính sách phân cấp của Chính phủ từ Nghị định số 144/2016/NĐ-CP, Nghị quyết số 119/2020/QH14 đồng ý giao cho Ủy ban nhân dân thành phố “được phê duyệt điều chỉnh cục bộ quy hoạch đô thị thành phố Đà Nẵng theo trình tự, thủ tục do Thủ tướng Chính phủ quy định và báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện”(6). Về quản lý tài chính - ngân sách, thành phố Đà Nẵng được tăng thêm một số cơ chế, chính sách đặc thù khác. Cụ thể, để tăng ngân sách của thành phố, Hội đồng nhân dân thành phố được quyết định sử dụng nguồn cải cách tiền lương còn dư của ngân sách địa phương để đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách thành phố. Hội đồng nhân dân thành phố được quyền quyết định áp dụng trên địa bàn thành phố các loại phí, lệ phí chưa được quy định trong danh mục phí, lệ phí ban hành kèm theo Luật Phí và lệ phí; được quyền điều chỉnh mức hoặc tỷ lệ thu phí, lệ phí đã được cấp có thẩm quyền quyết định đối với các loại phí, lệ phí được quy định trong danh mục phí, lệ phí ban hành kèm theo Luật Phí và lệ phí, trừ án phí, lệ phí tòa án. Ngân sách thành phố Đà Nẵng được hưởng 100% số thu tăng thêm từ các khoản thu do việc điều chỉnh chính sách thu quy định tại khoản 3, Điều 9 của Nghị quyết số 119/2020/QH14 để đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách thành phố và không dùng để xác định tỷ lệ phần trăm đối với các khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách thành phố Đà Nẵng.

Cùng với việc thí điểm mô hình chính quyền đô thị, Trung ương tiếp tục có những cơ chế, chính sách đặc thù theo hướng tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền thành phố, hướng đến mục tiêu “xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những trung tâm kinh tế - xã hội lớn của cả nước và Đông Nam Á” như Nghị quyết số 43/NQ-TW đã đề ra. Những cơ chế, chính sách đặc thù của Trung ương dành cho Đà Nẵng giúp chính quyền thành phố có không gian chính sách rộng lớn hơn và quyền tự chủ hơn trong việc theo đuổi các mục tiêu phát triển. Việc ưu tiên cơ chế đặc thù về lĩnh vực tài chính, ngân sách giúp chính quyền thành phố có nhiều nguồn lực tài chính hơn nhờ được hưởng sự linh hoạt về cơ chế, chính sách trong việc huy động vốn và phân bổ nguồn lực của thành phố. Theo Báo cáo tổng kết của Bộ Tài chính về kết quả triển khai thực hiện Nghị định số 144/2016/NĐ-CP, trong gần ba năm, thành phố Đà Nẵng đã vay lại vốn ODA để đầu tư cho phần bổ sung của Dự án phát triển bền vững thành phố Đà Nẵng (tổng mức đầu tư bổ sung 86,185 triệu USD, trong đó: vốn ODA là 72,52 triệu USD, vốn đối ứng 13,665 triệu USD), Dự án cải thiện hạ tầng giao thông thành phố Đà Nẵng (tổng mức đầu tư 61,37 triệu USD, trong đó: vốn ODA là 45 triệu USD, vốn đối ứng 16,37 triệu USD). Với cơ chế “thành phố được bán nhà ở xã hội được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước theo hình thức thu tiền một lần để tái đầu tư xây dựng nhà ở xã hội khác trên địa bàn” theo quy định tại Điều 9, Nghị định số 144/2016/NĐ-CP, bước đầu, thành phố đã triển khai thực hiện cơ chế này, kết quả đạt được góp phần bù đắp phần ngân sách địa phương đã đầu tư để thực hiện việc tái đầu tư của chính quyền thành phố.

Tuy nhiên, khả năng tự chủ của thành phố Đà Nẵng từ các cơ chế, chính sách đặc thù của Trung ương theo Nghị định số 144/2016/NĐ-CP còn hạn chế. Cụ thể, về cơ chế ưu tiên huy động vốn đầu tư và nguồn vốn hỗ trợ từ Trung ương qua 3 năm thực hiện Nghị định số 144/2016/NĐ-CP của Chính phủ, “quá trình triển khai thực hiện gặp nhiều khó khăn do ngân sách trung ương hạn hẹp, Chính phủ phải thực hiện nhiều mục tiêu trong cùng thời kỳ ngân sách, đồng thời do các quy định hiện hành về việc bố trí nguồn ngân sách trung ương hỗ trợ có mục tiêu, do vậy thành phố chưa được thụ hưởng các cơ chế này”(7). Như vậy, về mặt pháp lý, mặc dù Nghị định số 144/2016/NĐ-CP đã quy định rất rõ các cơ chế đặc thù cho Đà Nẵng, nhưng khả năng áp dụng trong thực tiễn lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Trong trường hợp này, Đà Nẵng chưa được thụ hưởng cơ chế ưu tiên huy động vốn đầu tư và nguồn vốn hỗ trợ từ Trung ương cho sự phát triển của Đà Nẵng là vì nguồn hỗ trợ này không được giao trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trung hạn giai đoạn 2016 - 2020 được đặt ra từ trước khi ban hành Nghị định số 144/2016/NĐ-CP, đồng thời phải phụ thuộc vào ý kiến của cấp có thẩm quyền. Như vậy, về mặt pháp lý, cơ chế, chính sách đặc thù đã có, nhưng về mặt thực tiễn, cơ chế đặc thù có khả thi hay không, thực hiện được đến mức nào lại tuỳ thuộc vào tính đồng bộ về mặt thể chế và mức độ triệt để của chính sách phân cấp.

Cơ chế Chính phủ ưu tiên bố trí vốn vay ưu đãi theo phương thức cho địa phương vay lại để thực hiện các dự án PPP trên địa bàn thành phố chưa thực hiện được dự án nào. Nguyên nhân là do cơ chế thực hiện dự án theo hình thức PPP phức tạp, cơ sở pháp lý chưa đầy đủ đối với việc bố trí vốn vay ưu đãi theo phương thức cho địa phương vay lại. Do đó, trên thực tế, Đà Nẵng chưa được hưởng cơ chế ưu đãi này. Thẩm quyền “phê duyệt danh mục dự án, quyết định tiếp nhận các khoản viện trợ (ODA, phi chính phủ nước ngoài) không hoàn lại đối với các dự án, chương trình dự án không phụ thuộc vào quy mô viện trợ” của chính quyền thành phố theo quy định tại khoản 3, Điều 4, Nghị định số 144/2016/NĐ-CP chỉ thực hiện được một vài dự án nhỏ do không có các dự án lớn, hiệu quả vận dụng cơ chế này chưa cao.

Về cơ chế tài chính - ngân sách, Trung ương bổ sung có mục tiêu cho thành phố Đà Nẵng 70% số tăng thu so với dự toán được Thủ tướng Chính phủ giao. Trong 2 năm 2017 và 2018, số thu ngân sách nhà nước từ các khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương và các khoản thu ngân sách trung ương hưởng 100% trên địa bàn thành phố không đạt dự toán được Thủ tướng Chính phủ giao. Do đó, không có cơ sở để Trung ương xem xét hỗ trợ theo cơ chế trên. Về quy hoạch, việc cho phép Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng điều chỉnh đến 10% diện tích khu công nghiệp, khu công nghệ cao, nhưng không quá 30ha chưa phát huy nhiều tác dụng bởi vì trên thực tế, việc điều chỉnh các khu công nghiệp, khu công nghệ cao xuất phát từ các chủ trương lớn của thành phố và mức điều chỉnh thường lớn hơn giới hạn 10% hay 30ha. Để khắc phục hạn chế này và tăng cường năng lực tự chủ cho chính quyền thành phố, Nghị quyết số 119/2020/QH14 của Quốc hội ban hành cơ chế  “Thủ tướng chính phủ phân cấp cho Ủy ban nhân dân thành phố thực hiện phê duyệt điều chỉnh cục bộ quy hoạch đô thị thành phố Đà Nẵng”. Đây là kết quả của quá trình chính quyền thành phố Đà Nẵng đề xuất với Chính phủ được phân cấp sâu hơn trong việc điều chỉnh quy hoạch các khu công nghệ cao, khu công nghiệp nhằm giải toả các điểm nghẽn về mặt chính sách liên quan đến quy hoạch và quản lý quy hoạch của thành phố.

Có thể khẳng định, việc Chính phủ, Quốc hội ban hành một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng là đúng đắn, kịp thời. Tuy nhiên, xét về mặt tổng thể, những cơ chế, chính sách được đề ra tại Nghị định số 144/2016/NĐ-CP cần được cụ thể hóa và có tính đột phá hơn để đáp ứng quá trình áp dụng mô hình chính quyền đô thị của Đà Nẵng, bởi “một số cơ chế, chính sách có thể được đánh giá là tương đồng, ngang bằng với quy định chung áp dụng đối với cả nước và chưa thật sự vượt trội so với các địa phương”(8). Kết quả là “các cơ chế về đầu tư, tài chính ngân sách và phân cấp quản lý chưa được thực hiện hiệu quả, chưa phát huy được tác dụng trong thực tế”(9).

Các cơ chế, chính sách đặc thù chưa phát huy hết được tác dụng trong thực tế, chưa tạo bước đột phá cho sự phát triển của Đà Nẵng là do cơ chế, chính sách này chưa đi kèm với các ưu tiên về thể chế và nguồn lực tài chính để thực hiện. Sự thiếu đồng bộ về mặt thể chế, sự chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn không đi kèm với các điều kiện về thể chế và nguồn lực tài chính để thực hiện đã làm hạn chế các khả năng thực thi các cơ chế, chính sách đặc thù trong thực tế. Nguyên nhân của những bất cập nếu trên còn “do nguồn lực Trung ương còn hạn chế, chưa đủ khả năng bố trí nguồn lực để đầu tư các công trình, dự án do Trung ương đầu tư trên địa bàn; cơ chế, chính sách còn chồng chéo, tính chất đặc thù chưa được phát huy; do yếu tố đặc thù nên quá trình triển khai thực hiện phải có ý kiến của các bộ, ngành Trung ương”(10). Đây cũng chính là cơ sở để Bộ Tài chính tiến hành tổng kết, lấy ý kiến đề xuất việc sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Nghị định số 144/2016/NĐ-CP.

Như vậy, trước những thách thức trong quá trình xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng, việc thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển là chủ trương đúng đắn, kịp thời. Đà Nẵng đang nỗ lực tiến hành sắp xếp lại cả về tổ chức bộ máy, nhân sự, chức năng, nhiệm vụ của chính quyền thành phố nói chung, các cơ quan hành chính nói riêng phù hợp với mô hình mới. Tuy nhiên, cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung những cơ chế, chính sách đặc thù trên nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc đặt ra trong thực tiễn để việc thực hiện mô hình chính quyền đô thị tại Đà Nẵng thực sự hiệu quả, đồng thời đáp ứng được yêu cầu đổi mới mô hình chính quyền địa phương nói chung gắn với việc đẩy mạnh phân cấp, phân quyền theo hướng tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước hiện nay./.

----------------------

(1), (6) Nghị quyết số 119/2020/QH14, ngày 19-6-2020, “Về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng”, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-quy-pham-phap-luat/nghi-quyet-so-1192020qh14-ngay-1962020-cua-quoc-hoi-ve-thi-diem-to-chuc-mo-hinh-chinh-quyen-do-thi-va-mot-so-co-che-6541

(2), (3) Nghị định số 144/2016/NĐ-CP, ngày 1-11-2016, “Quy định một số cơ chế đặc thù về đầu tư, tài chính, ngân sách và phân cấp quản lý cho thành phố Đà Nẵng”, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-quy-pham-phap-luat/nghi-dinh-so-1442016nd-cp-ngay-1112016-cua-chinh-phu-quy-dinh-mot-so-co-che-dac-thu-ve-dau-tu-tai-chinh-ngan-sach-va-2464

(4), (5), (7), (8), (9), (10) Bộ Tài chính: Báo cáo tổng kết việc thực hiện Nghị định số 144/2016/NĐ-CP, ngày 1-11-2016, của Chính phủ về một số cơ chế đặc thù về đầu tư, tài chính, ngân sách và phân cấp quản lý đối với thành phố Đà Nẵng, https://mof.gov.vn